aivfweb 28-06-2006 TS Nguyễn Khắc Nhẫn, Nguyên Cố vấn Nha kinh tế, dự báo, chiến lược EDF
Paris, GS Viện Kinh tế, chính sách năng lượng
Grenoble, GS Trường Đại học Bách khoa (Ta nên biết sợ Điện Hạt Nhân) Các
kiểu ḷ Muốn
có một ư niệm về tính cách hết sức phức
tạp và nguy hiểm của các ḷ hạt nhân để
sản xuất điện, ta nên xét qua về cơ cấu
kĩ thuật : - Chất nhiên liệu. - Chất điều độ ( modérateur)
(Ḷ nơ tron nhanh không có chất này) . - Chất truyền nhiệt. - Truyền nhiệt :
nước thường, nước nặng, sodium, CO2,
hélium… - Điều
độ: hydrogène, deutérium, graphite… -
Nhiên liệu th́ tuỳ bản chất: 235U, 233U,
239Pu… hay trạng thái vật lư: đặt (kim loai,
oxyde, carbure) cháy, ḥa tan.. Ví
dụ với mỗi chất ta có 3 đến 5 yếu tố, một bài tính
tổ hợp đơn sơ (5x5x3x4) cho ta ít nhất là 300
kiểu ḷ ! Ḷ
thế hệ Ι gồm có những ḷ như Shippingport
(Mĩ), Magnox (Anh) hay UNGG (Pháp). Phần lớn các ḷ này
đă hoặc đang được tháo gỡ. Ḷ
thế hệ II gồm các
kiểu ḷ PWR ( Pressurized Water Reactor) và BWR (Boiled Water Reactor)
(Âu, Mĩ ,Nhật ), VVER và RBMK (Nga ), Candu nước
nặng (Canada, Ấn Độ). Sở
dĩ ḷ thế hệ II PWR được thông dụng
nhất trên thế giới (75%) là nhờ ở chiếc tàu
ngầm Nautilus của Mi áp dụng thành công kỹ thuật
này lúc sơ khởi, năm 1954. Trên
nguyên tắc, có nhiều kiểu ḷ khác, kinh tế và an toàn
hơn, nhưng v́ sợ mất th́ giờ và phí tiền
để nghiên cứu, nên công
nghệ PWR may mắn được tiếp tục
phổ biến rộng răi trên thị trường.
Bằng chứng là một hai kiểu ḷ thế hệ IV
đă được chú ư từ mấy chục năm nay. Các ḷ chuyển tiếp thế
hệ III ,với nước áp lực, như EPR (European
Pressurized Reactor) 1600MW và với nước sôi như SWR
1000-1250 MW (có thiết bị an toàn thụ động)
được Pháp và Đức chung sức nghiên cứu từ trên 12 năm nay,
sẽ có hiệu suất và mức độ an toàn cao. Giá
thành kWh, trên nguyên tắc, sẽ hạ v́ thời gian xây
cất và tu bổ (kể cả
việc thay nhiên liệu) được rút ngắn.
Trái lại thời gian vận hành sẽ kéo dài 60 năm. Các
ḷ thế hệ III, tuy chưa ra đời, đă
được nhiều chuyên gia xem như đă lỗi
thời v́ cùng một kỹ thuật với các ḷ PWR .
Đến nay, chỉ có Phần Lan đă quyết
định sẽ xây cất 1 ḷ EPR và EDF (Electricité de France)
sẽ có khả năng đặt mua nhiều ḷ EPR
để lần lượt thay thế các ḷ PWR đến
tuổi phải ngưng vận hành. Ḷ
thế hệ IV đang được 10 nước chung
sức nghiên cứu trong khuôn khổ Forum International Generation
(GIF), do Mỹ đề xướng từ năm 2000. Các
nước ấy là: Mỹ, Ac hen ti na, Bra zil, Ca na da, Pháp,
Nhật, Hàn Quốc, Nam Phi, Thuỵ Sĩ, Anh. 6 kiểu ḷ
đă được lựa chọn trong số 120 hệ
thống kĩ thuật được các nước
đề nghị: 1.
Ḷ SFR (Sodium Fast
Reactor). 2.
Ḷ LFR (Lead or
Lead/Bismuth Fast Reactor). 3.
Ḷ SCWR
(Supercritical Cooled Water Reactor). 4.
Ḷ MSR (Molten
Salt Reactor). 5.
Ḷ GCFR (Gaz
Cooled Fast Reactor). 6.
Ḷ VHTR (Very
Hight Temperature Reactor). Ngoại
trừ ḷ VHTR và ḷ SCWR, 4 (5) kiểu ḷ kia có chu tŕnh kín,
nghĩa là phải có khả năng đốt cháy phần
lớn chất thải phóng xạ để hạn
chế việc xử lí nhiên liệu . Khác với các ḷ thế hệ trước, với các
ḷ thế hệ IV, chu ḱ nhiên liệu rất phức
tạp, phải được định nghĩa ngay
từ lúc đầu . Bốn tiêu chuẩn chính phải
được tôn trọng là : -Tiết kiệm tài nguyên. -Tiết kiệm về chu ḱ nhiên liệu. -Hạn chế chất thải phóng
xạ. -Hạn chế sự lan rộng vũ
khí nguyên tử. V́ đang c̣n trong thời
ḱ phôi thai, phần lớn các ḷ này, trên lí thuyết, an toàn
hơn, nhưng chưa thể xuất hiện trên thị
trường trước 2035-2040.
Nhiều chuyên gia
Châu Âu trong hệ thống MICANET và HTR-TN, chú trọng về
nghiên cứu, cũng góp phần hợp tác với
chương tŕnh GIF này. Có công nghiệp nào bắt ta
phải đợi ba bốn chục năm sau mới
được giao máy móc mà cũng không hứa hẹn là
sẽ chạy tốt và rẻ không? Ngay như ở Mĩ,
cũng có nhiều chuyên gia đề nghị tiếp
tục sử dụng ḷ thế hệ II v́ đă có kinh
nghiệm, c̣n hơn là chờ đợi ḷ thế hệ
IV, chưa có thể bảo đảm về an toàn cũng
như kinh tế ! (Về sác xuất xảy ra sự
cố, bài tính rất phức tạp, một phần
cũng v́ tŕnh độ nhân viên khai thác, tùy nước, có
ảnh hưởng khác nhau. Đem so sánh với rủi ro
tai nạn máy bay hay xe cộ xảy ra chẳng hạn
cũng không thiết thực, v́ hậu quả do ĐHN gây
ra thảm hại hơn nhiều). Các bạn nghĩ sao
nếu Mercedes, Honda hay Renault hứa hẹn với khách hàng
một kiểu xe tân tiến, nhưng chỉ con cháu họ
mới mua được v́ c̣n ở giai đoạn nghiên
cứu? Phải chăng là những nhóm áp lực (lobby)
của một số nước giàu mạnh muốn duy tŕ
ảnh hưởng và địa vị của ĐHN trên
thế giới, không muốn có sự cạnh tranh của
Năng lượng tái tạo ? V́ lỡ
đầu tư hàng trăm, hàng ngàn tỉ USD cho lĩnh
vực này, nên họ không có can đảm rút lui, mặc dù
thị trường ĐHN đă trở nên lu mờ và
thiếu triển vọng (trừ một số
nước Châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, v́
nhu cầu quá lớn, không chuyển hướng ngay
được và cũng v́ họ cần thêm kinh nghiệm
cho việc chế tạo vũ khí nguyên tử ?) Xử lư nhiên liệu và lưu
giữ chất thải phóng xạ (nhược
điểm lớn nhất của ĐHN) Tôi xin nhắc
lại đây vài chi tiết tŕnh bày trong các bài về ĐHN
đă viết. Mỗi năm, một
ḷ PWR 1000 MW (với nhiên liệu 238U + 3,5% 235U)
có thể sản xuất 6 -7 ti kWh và sinh ra khoảng 21
tấn nhiên liệu phóng xạ. Khối lượng này
gồm có 20 tấn U (0,9% 235U), 200 – (330) kg Pu, 21 kg Actinides nhỏ (10 kg 237Np
+ 10 kg 241Am + 1 kg 244Cm) và 1183 kg sản
phẩm phân ră (có 80 kg hoạt tính cao với đời
sống dài). Lúc đầu,
xử lư nhiên liệu hạt nhân chủ yếu là
để lấy Pu (Plutonium)
cho quân đội. Sau đó Pu được trích ra
để dùng trong các ḷ siêu phản ứng như Phénix (250
MW) và Superphénix (1250 MW) của Pháp. (Chính phủ Pháp đă ra
lệnh đóng cửa Superphénix năm 1998, v́ nhà máy rất
nguy hiểm, bị trục trặc liên tiếp làm tốn
hao gần 10 tỷ USD !) Phương pháp dùng PuO2,
ở nhiên liệu phóng xạ trích ra, trộn với UO2
thành nhiên liệu MOX (Mixed Oxide Fuel) cho những ḷ PWR, sự
thật không có lợi ǵ lắm về phương diện
kinh tế cũng như môi trường. V́ vậy nên
nhiều nước đă bỏ phương pháp này. Điều
đáng lo ngại (v́ sợ bọn khủng bố) là
nhiều lúc phải chuyên chở nhiên liệu phóng xạ và
Pu từ tỉnh này sang tỉnh khác hoặc ra ngoại
quốc. Ví dụ sau đây cho ta thấy
tính cách vô cùng nguy hiểm của công nghiệp hạt nhân,
đ̣i hỏi một giá quá cao, chưa kể vấn
đề an ninh xă hội . Theo hiệp ước Start I và
Start II (1991- 1993) giữa Mĩ và Liên xô, về việc
tước vũ khí nguyên tử, hai nước này đă
thoả thuận (năm 2000) t́m cách giảm bớt mỗi
bên 34 tấn Pu quân đội. V́ vậy Mĩ quyết
định giao cho Areva của Pháp dùng Pu này để chế
tạo 4 tập hợp nhiên liệu MOX cho ḷ ĐHN của
Mĩ . Hai chiếc tàu (giống nhau, 100 m X 15 m, để
đánh lừa quân khủng bố) Pacific-Teal và Pacific- Pintail, với nhiều
lính tráng và vũ khí, đă chở 140 kg Pu, từ hai cảng quân sự Charleston
(Mĩ ) đến Cherbourg (Pháp) ngày 6-10-04. Có cả vệ
tinh theo dơi để bảo vệ ! Tổ chức
Greenpeace (xem Pu này như chất thải phóng xạ chứ
không phải nhiên liệu) đă bố trí phản
đối mạnh. Trên đất Pháp, đoàn xe
dưới sự bảo vệ của quân đội,
sẽ chở Pu của Mĩ từ Cherbourg đến La
Hague (trạm kĩ thuật) trước khi tiếp
tục cuộc hành tŕnh gần 1200 cây số đến
Cadarache ngày 9/10/2004 (giá thành kWh như thế làm sao kinh
tế ?). 140 kg
Pu này (đủ để chế tạo 20 quả bom
nguyên tử) không có nghĩa lí ǵ so với con số 1 triệu kg (1000 tấn!) Pu (quân đội và dân sự
lẫn lộn) đang được tích trữ trên
thế giới từ năm 1995, chủ yếu là ở Nga
và ở Mĩ. Số lượng này, mỗi ngày một
tăng, phần lớn v́ các ḷ ĐHN! Đó là món quà
dộc hại của một số cường quốc
tặng cho nhân loại, chưa kể Uranium giàu do các máy li
tâm được TS Abdul Khan (Pa kix tan) phổ biến kín
đáo đó đây! Từ lâu, cơ
xưởng La Hague mang tiếng “thùng rác hạt nhân” của
Pháp, đă nhận xử lư nhiên liệu phóng xạ của
nhiều nước như Nhật, Đức, Bỉ...
Ngày nay t́m một nước như Pháp lúc trước,
phụ trách việc xử lư nhiên liệu cho các nước
khác và đồng thời phải t́m
vài địa điểm để tập trung chôn vùi
chất thải phóng xạ, dưới sự kiểm tra
quốc tế, không phải là chuyện dễ. Đề
nghị này của một vài
nước, có tính cách lư thuyết, sẽ khó thực
hiện được. Ngoại trừ Pháp, phần
lớn các nước áp dụng chu tŕnh mở, nghĩa là
không thực hiện khâu xử lư nhiên liệu hạt nhân,
rất phức tạp và tốn kém. Chất thải
phóng xạ gồm có hai thành phần chính: ·
Những nguyên
tố TRU - TRansUraniens (Pu, N Neptunium, Am Americium vv..) chiếm 1,1% nhiên liệu
đă đốt, với chất độc phóng xạ có
hiệu lực hàng triệu
năm. ·
Những
mảnh phân ră chiếm 4% nhiên liệu đă đốt
với chất độc phóng xạ kéo dài 200-300 năm. Với hệ thống lai ADS (Accelerator Driven System)
của giải thưởng Nobel Carlo Rubbia và những thí
nghiệm liên hệ FEAT (First Energy Amplifier Test) và TARC
(Transmutation by Adiabatic Resonance Crossing), các nhà khoa học t́m
cách loại bỏ trên 99,9% những nguyên tố TRU và trên 95%
những mảnh phân ră có đời sống dài. V́ một
số lư do kỹ thuật và kinh tế, nhiều công ty
điện lực như EDF, không hưởng ứng
hệ thống ADS này. Sự thiêu đốt và/hay chuyển vị (transmutation)
nguyên tử có những quá tŕnh hết sức lâu và vô cùng
phức tạp. Không thể chuyển vị nguyên tử
những sản phẩm phân ră có đời sống trung
b́nh như 137Cs (Cesium ) và 90Sr (Strontium) Về việc lưu giữ chất thải phóng
xạ, điểm yếu lớn nhất của ĐHN,
sau nửa thế kỷ, khoa học và kỹ thuật
vẫn chưa t́m ra lối thoát. Không có nước nào dám
tuyên bố sẽ thành công trong tương lai gần hay xa
(hàng chục năm hay thế kỷ). Giải pháp “tạm
thời” rất tốn kém, tóm tắt là thủy tinh hóa
chất thải, rồi tạm chôn sâu vào ḷng đất có
đất sét hoặc muối, với hy vọng một
ngày kia khoa học sẽ giải quyết ổn thỏa
vấn đề ! Tháo gở nhà máy ĐHN!
Đứng
về phương diện kinh tế, kinh phí đầu
tư một nhà máy ĐHN rất cao, so với các nhà máy
chạy bằng than hay khí ( và dầu ). Giá thành kWh ở Châu
Âu không rẻ như
người ta tưởng. Ở Pháp, v́ nhiều nhà máy
được xây cất
một loạt, cùng một kiểu ḷ, trong một thời gian ngắn, nên giá
tương đối rẻ hơn so với các
nước khác. Tuy nhiên, nếu kể tỉ mỉ tất cả những chi phí
từ khâu nghiên cứu sưu tầm (thường không tính
hết v́ có sự hợp tác giữa các cơ quan dân sự
và quốc pḥng), xử lư nhiên liệu, tháo gỡ, lưu
giữ chất thải phóng xạ, bảo hiểm an toàn v
v..., th́ ĐHN không kinh tế, nhất là đối với
những nước đang phát triển, c̣n thiếu
rất nhiều điều kiện về khoa học
kĩ thuật cũng như nhân viên chuyên môn.
Riêng ở Mĩ, giá thành ĐHN cao hơn
điện chạy bằng than hay khí 60% !
Sự
cố vừa qua ở Nhật Trong ngày kỉ niệm
(9/08/2004) thành phố Nagasaki bị Mĩ dội bom nguyên
tử năm 1945, làm 75.000 dân tử nạn, một sự
cố quan trọng đă xảy ra tại ḷ PWR số 3 (825
MW) của nhà máy Mihama, tỉnh Fukui, cách Tokyo 320 km về phía
Tây. Tai nạn được
xem như lớn nhất từ trước tới nay trong
lĩnh vực hạt nhân của Nhật v́ có 5 người thiệt mạng và 6
người bị thương. Chủ tịch công ty KEPCO
(Kansai Electric Power Co), nh́n nhận trách nhiệm, đă xin
lỗi dân chúng và gia đ́nh các nạn nhân. Cũng rất
may là không có phóng xạ thải ra v́ đường ống
bị nổ (đường kính 60 cm – chiều dày 10 mm),
cạnh tuabin, không thuộc chu tŕnh sơ cấp. Nhà máy
Mihama hoạt động từ 1976 ; trong 28 năm
trời, đường ống này chưa hề được
kiểm tra, nên chiều dày bị ăn ṃn, chỉ c̣n 1,4 mm,
dưới độ an toàn (4,7 mm) mà chẳng ai để
ư ! Nếu theo nguyên tắc, cứ 10 năm kiểm tra ¼
thiết bị, th́ phải đợi 40 năm mới xong
chương tŕnh. Một tai nạn
tương tự cũng đă xảy ra năm 1986 ở
Mỹ tại nhà máy Surry ( Vir gi ni a) làm 4 người tử
thương. Trong thời gian qua,
Nhật là nước đă gặp liên tiếp nhiều
sự cố nhất trên thế giới, từ ḷ nơ
tron nhanh Monju, đến nhà máy xử lí nhiên liệu Tokaimura
làm 2 người chết v́ phóng xạ (1999). Năm 1991, một
đoạn ống của ḷ số 2 nhà máy Mihama cũng bị vỡ, làm thoát ra 55
tấn nước nhiễm phóng xạ ! Năm 2003, công ty TEPCO (Tokyo
Electric Power Co), lớn nhất của Nhật, đă
bắt buộc phải tạm
ngưng hoạt động một loạt 17 ḷ v́ có sự
dối trá trong các tài liệu
về an toàn. Năm 1999, sau khi thăm
viếng các nhà máy ĐHN của Nhật, một nhóm chuyên
gia Đức đă tuyên bố hết sức ngạc nhiên
về những trang bị thiếu an toàn và cách áp
dụng bừa băi những tiêu chuẩn kỉ thuật của một nước co công nghiệp mạnh
như vậy ! Đừng quên rằng
tỷ lệ ĐHN của Nhật đă lên quá 25% với
52 ḷ, sản xuất mỗi năm trên 300 tỉ kWh,
được xếp vào hàng số 3 trên thế giới,
chỉ sau Mĩ và Pháp. Một phần ba số ḷ trên đă
hoạt động được 25 năm. Cũng như một
số nước Âu, Mĩ khác, Nhật muốn gia hạn
thời gian vận hành của các nhà máy ĐHN lên 40,50,
hoặc nếu có thể, 60 năm ! Điều này
rất nguy hiểm v́ lúc thiết kế, phần lớn các
công ty dự định cho hoạt động 30 năm
thôi. Mặc dù phải tu bổ cẩn thận trước
khi được phép gia hạn, nhưng không thể nào
thay thế tất cả những bộ phận của nhà
máy được. Việc
mở cửa thị trường điện lực,
sự cạnh tranh về giá thành kWh, sự ham lợi
của những công ty tư nhân, sự tiết kiệm nhân
công kiểm tra ; dần dần sẽ làm giảm
mức độ an toàn trong việc khai thác và quản
trị những nhà máy ĐHN. Trong chớp nhoáng, một vài
tai biến xảy ra có thể làm sụp đổ cả
công nghiệp hạt nhân, hết sức mỏng manh. Trong một nhà máy có hàng
chục, hàng trăm km dây điện, ống nước,
đủ thứ dụng cụ,
người ta sợ hạt nhân ít mà lo cho nhân viên thiếu
tŕnh độ kỹ thuật, thiếu b́nh tĩnh th́
nhiều. Sự
cố vừa qua ở Nhật đă làm lung lay thêm
sự tin tưởng của dân chúng cũng như của
chính phủ. Từ hai tháng nay, ngày nào báo chí cũng lên
tiếng, ḥa âm với những tổ chức như CNIC
(Citizen’s Nuclear Information Center)
đặt nhiều câu hỏi, t́m hiểu gốc cội,
tại sao có những tai nạn liên tiếp ? Những
qui định, chỉ thị của chính phủ sẽ
được áp dụng một cách nghiêm khắc hơn (Tất
cả các nhà máy ĐHN đều phải được
kiểm tra lại, trong đó những nhà máy của KEPCO phải
tạm ngưng hoạt động) và những công ty
sẽ không dám che dấu sự thật như trước
nữa. (Tiện đây cho phép tôi nhắc lại – và xin
miễn phê binh – lời tuyên bố của ông Kazuki Hamachi,
người dẫn đầu diễn đàn công nghiệp
nguyên tử Nhật Bản ở cuộc triễn lăm
ĐHN ở Hà Nội tháng 05 vua qua : « không cần quá
lo ngại về chất thải phóng xạ hoạt
độ cao, bởi trong 70 năm, lượng
chất thải này
từ nhà máy điện hạt nhân chỉ lớn bằng
một nắm tay ! » theo Vnexpress 24/05/2004). Chương
tŕnh và chiến lược dài hạng về ĐHN của
Nhật có thể sẽ bị ảnh hưởng lớn.
Ủy ban năng lượng nguyên tử nước này
(Atomic Energy Commission) đang ở trong một tŕnh trạng
khó xử v́ chưa nhất trí được một
số vấn đề trọng yếu, như việc
xử lư nhiên liệu chất thải phóng xạ. Theo bài phân tích kinh tế
mới nhất của cơ quan nói trên, giá thành mỗi kWh,
không xử lư nhiên liệu, là 0,9 yên thay v́ 1,6 yên nếu
xử lư, có nghĩa là giải pháp xử lư đắt
hơn 80% ! Dù sao khả
năng của những cơ xưởng xử lư như
Rokkashomura (sắp mở cửa) cũng bị giới
hạn vào năm 2016. Mà nếu không xử lư th́ chẳng có
tỉnh nào t́nh nguyện cho phép chôn chất thải phóng
xạ cả. Việt
Nam và vũ khí nguyên tử Đúng là bị nghi ngờ, nên
Việt Nam mới nằm trong danh sách của 44 nước
trên thế giới được ghi trong hiệp
ước cấm thử vũ khí nguyên tử (CTBT). Tôi không đủ
tư cách để đề
cập vấn đề chính trị. Đứng về
phương diện khoa học và kĩ thuật, theo tôi có
thể có 3 lí do sau đây : - Ở Đà Lạt ta có ḷ phản ứng TRIGA (Training,
Research, Isotop Production, General Atomic) từ năm 1963 do Mĩ
trở giúp xây dựng. Với mục đích chỉ
để nghiên cứu và đào tạo, nên kiểu ḷ
phản ứng nhỏ này (nơ tron nóng) hết sức an
toàn một cách thực chất, dễ khai thác so với
những ḷ ĐHN có công suất
lớn hơn 2000 lần. Công suất nhiệt, lúc
sơ khởi của ḷ TRIGA, chỉ có 250 kW. Năm 1984 Liên
Xô giúp ta khôi phục và công suất nhiệt lên đến
500 kW. -Viện nghiên cứu hạt
nhân Đà lạt từ 20 năm nay đă đào tạo
được khoảng 150 cán bộ kĩ thuật có tŕnh
độ, bảo đảm vận hành ḷ an toàn và triển
khai ứng dụng có kết quả, đồng thời
cũng đă sản sinh ra 50 công tŕnh khoa hoc, đă
được công bố trên các tập chí quốc tế
(xem bài của GS Phạm Duy Hiển: «Hai mươi năm
ḷ phản ứng hạt nhân Đà Lạt »,
www.tailieu.thoidai.org). - Nguồn năng lượng
thiên nhiên ta (dầu, khí, than, thủy điện) c̣n dồi dào mà
Viện Năng Lượng Nguyên Tử lại tuyên bố
sẽ xây cất nhà máy ĐHN với hai ḷ 1000 MW ở Ninh
Thuận năm 2017-2020. Tuy không bắt buộc, phần lớn các nước
muốn chế tạo bom nguyên tử đều bắt
đầu từ chương tŕnh ĐHN, như vậy
để có sự hợp tác quốc tế công khai về
mặt kĩ thuật cũng như tài chính; nên ta bị
nghi ngờ là chuyện tất nhiên (bom nguyên tử cần
một khối lượng tới hạng từ 5 đến 7 kg Pu, tùy theo
trạng thái kim loại hay PuO2 – mỗi ḷ PWR 1000 MW
có thể cho một năm 200
kg Pu). Trong báo cáo năm 1995 tŕnh ông
Tổng thư kí Liên Hiệp Quốc về vấn
đề tăng trưởng quá mức của vũ khí
nguyên tử, Jacques Attali, nguyến Cố vấn đặc
biệt của Tổng thống Mitterand và Chủ tịch
ngân hàng BERD (Londres) , đă long trọng đề nghị
nên hạn chế việc xây cất nhà máy ĐHN ở
một số nước trên thế giới. Một trong
những lư do nêu ra là v́ cơ quan nguyên tử quốc tế
IAEA thiếu quyền hạn và điều kiện thanh tra
chu đáo. Điều hết sức mâu
thuẫn là các cường quốc, tuy muốn hạn
chế sự lan rộng vũ khí nguyên tử, nhưng
vẫn tiếp tục xuất khẩu ḷ hạt nhân, để
duy tŕ công nghiệp này và thu lợi, bất kể hậu
quả có thể tai hại cho các nước nghèo và ḥa b́nh
thế giới. Điều đáng lo ngại
khác là 90% vũ khí buôn bán trên thị trường quốc
tế được sản xuất ở tại 5
cường quốc toàn là uỷ viên thường trực
Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc ! Từ năm 1976,
Mĩ, Pháp, Đức đă chiếm trên 80% thị
trường công nghiệp hạt nhân, Nga 15%. Vài
nước như Ca na da, Anh, Nhật cũng đă gặt
hái được nhiều hợp đồng béo bở.
Rất nhiều thỏa ước hợp tác về
hạt nhân đă được kí kết như: - Mĩ với Is ra en, I rac (1974). - Pháp với I rac, I ran (1975), Ai Cập
(1978), Ấn Độ (1982). - Đức với Bra zil (1975). (I rac, I ran thừa dầu mỏ th́ làm nhà máy ĐHN
để làm ǵ? ) V́ lí do chính trị, Mĩ nhiều khi phải tránh ra
mặt công khai, nên giao dịch qua hai nước Pháp
(với giấy phép sáng chế Westinghouse) và Đức
chẳng hạn. Đó là một trong những mặt
dối trá của công nghiệp hạt nhân, không riêng ǵ cho
nước Mĩ. I ran đă cho Pháp mượn 1 tỷ USD đầu
tư vào xưởng Eurodif sản xuất Uranium giàu,
để có nhiên liệu cho 20 ḷ được dự trù
trong chường tŕnh ĐHN mà vua (cũ)
nước này mơ ước từ lâu. Nhiều nước núp sau hạt nhân dân sự hoà b́nh
(Atome for Peace, khẩu hiệu của Mĩ) để
chế tạo âm thầm hay công khai vũ khí nguyên tử. Ta
nên nhớ rằng những cuộc chiến tranh gần
đây đều nặng mùi dầu mỏ và đă diễn
ra ở một vùng giàu nhất về nhiên liệu này: -Is ra en – Ai Cập –Xi ri
(Kippour 1973- cơn khủng hoảng dầu mỏ
đầu tiên). -I ran- I rac (1979-1980 – cơn khủng hoảng
đầu mỏ thứ hai). -Co oet- I rac- Mĩ (1990). -Mĩ- I rac (2003). Trong
tương lai nên trách những cuộc chiến tranh
khủng khiếp hơn v́ nhiên liệu hạt nhân..! Con đường bế
tắc của ĐHN Chẳng lẽ các
nước nghèo phải t́nh nguyện xây cất hàng trăm, hàng ngàn ḷ ĐHN để tiêu
thụ nhiên liệu MOX, giúp cho Nga, Mĩ nhẹ bớt gánh
nặng Pu, không biết cất đâu cho an toàn? Năm 1993,
General Atomics (Mĩ) và Minatom (Nga) đă chung sức nghiên
cứu ḷ nhiệt độ cao GT-MHR. Năm 1994, sau
hiệp ước thỏa thuận việc ngưng
sản xuất Pu cho quân đội và hạ mức lưu
giữ chất Pu, Mĩ và Nga lúc bấy giờ đồng
ư nghiên cứu ḷ nhiệt độ cao để sử
dụng hàng trăm tấn Pu có thừa! Fuji Electric (Nhật),
cũng tham gia vào chương tŕnh, với mục đích chung
là để bán cho các nước đang
phát triển ! Nếu Areva Pháp, với 140 kg phải
cần 4 tháng để chế tạo nhiên liệu MOX, th́
với trên 1000 tấn Pu
hiện có, phải ít nhất là 20 thế kỉ! (trong
lĩnh vực hạt nhân, dùng đơn vị thời gian
lớn như thế là phải, để ta đừng
quên rằng chu ḱ giảm một nửa phóng xạ của Pu là 240 thế kỉ!) . Cũng v́ thế mà Mĩ đă cùng Areva thành
lập một công ty tổ hợp DCS (Duke-Cogema-Stone Webster) để
nghiên cứu việc xây cất ở Savannah River trong năm
tới một xưởng Mĩ DEMOX. Nga cũng sẽ có xưởng CHEMOX để
loại trừ bớt Pu. Các
nước nghèo, sau khi xử lí nhiên liệu, có thể t́m
cách chế tạo vũ khí nguyên tử (mặc dù dân chúng
đói rách, trường hợp này đă xảy ra !).
Với lí do ǵ các cường quốc cấm
họ? I ran đang kín đáo phản đối. Chạy ṿng quanh (gọi là chu ḱ
kín) – quân đội và dân sự
lẫn lộn – nhưng rút cuộc, chất thải phóng
xạ tuy bớt đi, mà vẫn c̣n đó! Nhiên liệu Uranium sẽ khan
hiếm (điều hiển
nhiên), nếu nước nào cũng sẽ tự hào có ḷ
ĐHN, và chiến tranh nguyên tử (thay cho chiến tranh
dầu mỏ) khó tránh khỏi. Các ḷ ĐHN, mục tiêu lí
tưởng, sẽ được dội bom trước.
Nói một cách khác, khi ḥa b́nh
bị lung lay, có ḷ ĐHN chẳng khác nào như chứa bom
nguyên tử trong nhà! Giá
một thùng dầu càng cao (vừa mới
vượt lên mức 55 USD), công nghiệp
ĐHN càng mừng. V́ quyền lợi riêng của ḿnh, nước Mĩ, với số
lượng dầu mỏ dự trữ quan trọng
của họ -Strategic Petroleum Reserve (SPR), có khả năng lên
đến 700 triệu thùng – có thể làm giá dầu hạ
xuống bằng cách đổ vào
thị trường mỗi ngày 4 triệu thùng (ba tháng tối đa và sau đó 1,8
triệu thùng), tức 50% mức sản xuất của Arap
Saoudi. Trên thế giới không có nước nào có thể làm hạ giá nhiên liệu
hạt nhân nhanh chóng như thế,
nên cơn khủng hoảng, nếu xảy ra, sẽ tai
hại cho ḥa b́nh thế giới.. Làm ĐHN là khiêu khích tạo hóa.
Với những ḷ hiện nay áp dụng hiện
tượng phân ră hạt nhân (1g uranium tương
đương với 3 tấn than), các chuyên gia đă
bắt chước ḷ thiên nhiên của tạo hoá trong ḷng quả
đất (lư thuyết này c̣n đang được tranh
luận trong giới khoa học). Mặt khác, theo
đuổi các công tŕnh nghiên cứu Điện nhiệt
hạch hạt nhân (1g nhiên liệu tương
đương với 45 thùng dầu) như ḷ nhiệt
hạch thiên nhiên của mặt trời, mà không có ǵ bảo
đảm kết quả, th́ thật là phí th́ giờ (hàng nửa
thế kỉ) và tiền bạc (hàng chục tỉ USD). Dự án ITER (Intenational Thermonuclear Exprerimental Reactor)
cần ít nhất 12 tỷ USD nữa cho 30 năm tới. Phải
đợi đến gần cuối thế kỉ 21 này
mới biết có thể sử dụng điện
nhiệt hạch hạt nhân hay không! Đến chân trời
xa vời này, th́ năng lượng tái tạo (NLTT) đă
trưởng thành và kinh tế từ lâu (2030). Theo cá nhân tôi, thế giới đang
đi vào một con đường bế tắc hết
sức nguy hiểm. ĐHN không phải là lời giải
cho bài toán năng lượng và ḥa b́nh của nhân loại và
đặc biệt cho các nước như ta. Lời
giải phù hợp cho năng lượng nước ta
phải là Năng lượng tái tạo, như tôi vừa
tŕnh bày trong bài đăng trên Thời báo kinh tế Sài G̣n.
Ta không nên mặc cảm: không đi vào con đường
Điện hạt nhân không phải là ta “không có đầu
óc thông minh”, ngược lại, tôi tin rằng người
Việt Nam ta vốn không “nhẹ dạ, cả tin”, không
“lên gân làm oai”, đủ tri
thức để biết chọn con đường phát
triển vững chắc, đồng thời tránh
được “khuynh gia bại sản”, và hậu quả
tai hại cho con cháu. Danh
sách các bài về Điện hạt nhân của tác giả (Được
đăng ở www.tailieu.thoidai.org) 2.
GS. Nguyễn Khắc
Nhẫn trả lời một số câu hỏi về
Điện hạt nhân ở Việt 3.
Về Điện hạt
nhân ở Việt 4.
Tại sao chưa nên làm
Điện hạt nhân ở Việt 5.
Đất nước ta
chưa cần Điện hạt nhân – www.tailieu.thoidai.org ngày 6.
Điện hạt nhân không
kinh tế mà c̣n nguy hiểm cho đất nước – Thời
báo Kinh tế Sài G̣n số 22, ngày 7.
Điện hạt
nhân : nên dè dặt đối với những luận
điệu tuyên truyền của ngoại quốc – Người
lao động, ngày 8.
Năng lượng tái
tạo thay v́ Điện hạt nhân. Thời báo kinh
tế Sài G̣n ngày
·
Outils
de prévision et de gestion de la demande. Le cas spécifique de l’électricité.
Séminaire franco-vietnamien sur la
planification énergétique – Hanoi, 26-30/03/1990. ·
L’hydroélectricité
au VietNam (en collaboration avec Nguyễn Trần Thế et Michel
Ho Ta Khanh). Revue de l’Energie
Paris số 546, tháng 05/2003. Đoàn
kết Paris số 494, tháng 3/2004. |